GS. TS Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng Đại học Thái Nguyên - Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước Ngành Khoa học giáo dục
Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Đồng thời, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh mục tiêu “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Quyết định số 1705/QĐ-TTg ngày 31/12/2024.
Trên cơ sở các nghị quyết quan trọng này, cùng với thực tiễn phát triển của từng địa phương, cần xây dựng kế hoạch và chương trình hành động cụ thể. Bài viết này tập trung vào các vấn đề phát triển giáo dục, đào tạo, và nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới. Đặc biệt, bài viết hướng đến công tác chuẩn bị văn kiện cho nhiệm kỳ 2025-2030, với trọng tâm là 10 vấn đề chính trong xây dựng đề án phát triển giáo dục:
1. Sự cần thiết xây dựng Đề án
Mỗi đề án đều có tính cấp thiết, nhưng quan trọng là phải làm rõ sự phù hợp giữa chiến lược giáo dục với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, so sánh với bối cảnh cả nước và xu hướng thế giới. Đặc biệt, cần phân tích định lượng về sự đóng góp của nhân lực giáo dục - đào tạo đối với phát triển bền vững của địa phương, một yếu tố còn thiếu trong nhiều đề án hiện nay.
2. Cơ sở xây dựng Đề án
Bên cạnh cơ sở lý luận trong nước, đề án cần nhấn mạnh các quan điểm quốc tế thông qua các tài liệu từ UNESCO, UNDP, WB, đồng thời vận dụng các chiến lược giáo dục từ lĩnh vực khoa học giáo dục. Đồng thời, đề án phải gắn chặt với thực tiễn, đặc biệt là phân tích hệ thống giáo dục địa phương trong mối tương quan với giáo dục quốc gia và xu hướng kinh tế - xã hội. Trước tiên, cần xác định bối cảnh và dự báo chiến lược, bao gồm việc làm rõ các mục tiêu phát triển của địa phương, các trọng tâm kinh tế, cũng như những yếu tố có thể ảnh hưởng đến giáo dục trong tương lai. Bên cạnh đó, việc nhận diện và phân tích các vấn đề tiềm tàng là điều thiết yếu. Thực tế cho thấy, đại dịch COVID-19 đã bộc lộ nhiều hạn chế trong quản trị giáo dục, từ nội dung giảng dạy, phương pháp học tập đến sự kết nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Vì vậy, đề án cần tích hợp các phương pháp dự báo rủi ro nhằm chủ động ứng phó với những thách thức có thể phát sinh, đảm bảo nền giáo dục phát triển bền vững và thích ứng với các biến động trong dài hạn.
3. Quan điểm, mục tiêu của Đề án
Quan điểm của Đề án: Có nhiều cách diễn đạt quan điểm phát triển giáo dục, tuy nhiên cần quan tâm 4 nội dung có tính phương pháp luận tiếp cận để xác định đúng quan điểm từ góc độ khoa học giáo dục, khoa học dự báo:
i) Quan điểm tiếp cận hệ thống và phát triển, tức là đặt vấn đề chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tính chỉnh thể của phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và đất nước trong 15-20 năm tới (mặc dù kế hoạch có tính ngắn hạn 5 năm, nhưng chất lượng nguồn nhân lực phải xác định dài hơi hơn). Đồng thời, khi đặt vấn đề “chất lượng nguồn nhân lực” theo mục tiêu chất lượng cao nên coi trọng giá trị đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, nhưng quan trọng hơn là dẫn dắt sự phát triển, dẫn dắt thị trường trong giai đoạn tới. Giáo dục phải làm tốt chức năng này trong giai đoạn tới đây. Đây cũng là bí quyết thành công của các nước phát triển đã trải nghiệm hàng nhiều thế kỉ. Quan điểm này để tránh cách xây dựng chiến lược tương tự như kế hoạch giáo dục 5 năm của ngành giáo dục như vẫn thường diễn ra nhiều nhiệm kì.
ii) Khả năng thích ứng cao, thích nghi nhanh với sự thay đổi, ứng phó với những rủi ro cao trong chặng đường sắp tới. Ví dụ như dịch COVI-19 trong nhiệm kì qua đã làm phá vỡ khá nhiều đề án rất trí tuệ, rất khả thi nhưng do không tính đến “quản trị rủi ro” nên thất bại hoặc cũng vì thế mà không nhận ra được cơ hội trong đó. Thực hiện Nghị quyết 18 của TW về tinh gọn bộ máy cũng đang tạo hiệu ứng rất tich cực trong toàn hệ thống, đã tạo tiền đề tiếp tục cải cách hành chính trong bối cảnh mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của đất nước.
iii) Hoàn thiện đề án chiến lược phát triển giáo dục trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số mạnh mẽ. Nhờ đó, nó sẽ làm thay đổi toàn diện về tổ chức, cơ cấu từng trường học, năng lực quản lí và năng lực giáo viên và cả cách học của học sinh. Điểm cần lưu ý là không tính toán bằng thông số cũ mà nên tính đến sự thay đổi lớn: Ví dụ, khái niệm lớp học khi xây dựng (lớp học ảo); sĩ số học sinh (khi dạy online và sử dụng điện toán đám mây). Năng lực giáo viên, nếu không trở thành chuyên gia giáo dục, nếu không chuyển vai từ truyền đạt sang hướng dẫn thì sẽ bị AI thay thế; ứng dụng IoT rộng rãi, lớp học ảo sẽ xuất hiện và cách tính chuẩn giáo viên trên lớp học theo lối cũ khi tuyển dụng sẽ không còn phù hợp.
iv) Thể hiện rõ quan điểm của Luật giáo dục (2019) về mục tiêu giáo dục “phát triển toàn diện con người” và quan điểm quốc tế về giáo dục khai phóng. Triển khai Luật giáo dục mới, lưu ý quan điểm mới về mục tiêu giáo dục có sự thay đổi lớn: Nền tảng tư tưởng phát triển toàn diện con người đã tạo điều kiện để xây dựng một nền giáo dục mở, xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục mở trước hết xuất phát từ con người, cho con người và vì con người (tư tưởng nhân văn); đảm bảo cho tư tưởng khai phóng (tự do cá nhân); mở là coi trọng thực tiễn (thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí); mở là tạo không gian và thời gian, điều kiện để chủ thể chủ động, tích cực tham gia. Giáo dục mở đã tạo ra những suy nghĩ khác: Người dạy không duy nhất là giáo viên, người học không nhất thiết phải cùng độ tuổi, học liệu không chỉ là sách giáo khoa, kết quả học không chỉ là điểm số, lớp học không đồng nhất là không gian, thời gian cụ thể…Quan niệm về việc học, về giáo dục cũng phải thay đổi dựa trên nền tảng tiến bộ và nhân văn mà trong di sản của Bác Hồ đã để lại cho chúng ta. Do vậy, chiến lược giáo dục của địa phương nếu chỉ loạy hoay trong phạm vi nhà trường sẽ nhanh chóng bị lạc hậu mà điển hình là một số chính sách giáo dục thường xuyên thay đổi.
v) Triết lí giáo dục phải làm sáng tỏ tư tưởng: giáo dục có nhiệm vụ giúp con người chưa trưởng thành đạt đến sự trưởng thành. Do đó, con người cần được trang bị khả năng tự chủ, có khả năng tự quyết định, tinh thần đoàn kết, hành động có trách nhiệm. Khi con người được khai sáng, có khả năng hành động tự chủ thì cũng được giải phóng khỏi sự lệ thuộc của người chưa trưởng thành. Đặt trẻ em trên bệ phóng sáng tạo và trách nhiệm là tư tưởng cần được thông suốt.
Mục tiêu của Đề án:
Mục tiêu chung: cần diễn đạt rõ ràng đích cần đến, có thể nhấn mạnh: “…nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông qua hệ thống giáo dục phổ thông và giáo dục sau phổ thông để chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển bền vững của tỉnh giai đoạn 2025-2030 và những năm tiếp sau”.
Mục tiêu cụ thể: Là những kết quả cần đạt được, nên phải giải quyết khá trọn vẹn thông qua 3 nhiệm vụ trọng tâm cần giải quyết: i) đánh giá đúng thực trạng, nhấn mạnh các hạn chế và bài học; ii) mục tiêu dự báo định hướng đến 2030 theo phương pháp hiện đại và iii) đề xuất giải pháp có yếu tố mới, trọng tâm.
GS.TS Phạm Hồng Quang (Nguồn: vietnamhoinhap)
4. Thực trạng phát triển giáo dục và đào tạo
Phần thực trạng cần ngắn gọn gồm: Các số liệu chính có giá trị là thông số để nhận định đầy đủ về giáo dục địa phương; đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT) theo từng mảng giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên, chuyên nghiệp; căn cứ dự báo dân cư với những đặc điểm của địa phương; tác động của cách mạng công nghiệp 4.0; đánh giá các rủi ro khác (thiên tai, dịch bệnh); dự báo xu hướng của giáo dục tư thục, ngoài công lập hoặc trường quốc tế. Các đặc điểm môi trường địa phương như: biến đổi khí hậu, đặc điểm dân cư, giao thông, công nghệ, sức hút nhân lực từ FDI, mục tiêu chiến lược địa phương có liên quan đến sử dụng nguồn lực.
5. Dự báo nhu cầu, quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2025 - 2030, định hướng đến 2045
Nhu cầu nhân lực: Nhấn mạnh yêu cầu về phẩm chất năng lực con người trong bối cảnh mới: thông minh hơn, khát khao cống hiến, đổi mới sáng tạo.
Quan điểm: quán triệt đầy đủ các quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; bám sát yêu cầu của Kết luận 91 của Bộ Chính trị: “GD-ĐT là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng một thế hệ người Việt Nam đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi trong sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững”.
Mục tiêu: chất lượng (tiêu chí mới) với những đặc điểm chất lượng nhân lực mới của thời đại mới theo mục tiêu tổng quát trong Chiến lược giáo dục của Chính phủ: “Phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn minh nhân loại, phát triển toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới, chủ động tham gia và thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các tiến bộ mới nhất của khoa học và công nghệ; chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, tạo nền tảng cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc. Phát triển hệ thống giáo dục mở, đảm bảo công bằng và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, phục vụ học tập suốt đời, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa, hội nhập quốc tế. Đến năm 2030, giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á và đến năm 2045 đạt trình độ tiên tiến của thế giới”.
6. Phương án, dự án đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2025 - 2020, định hướng đến 2045
Các phương án, dự án cần phù hợp, khả thi với các mục tiêu hướng chuẩn hiện đại; cách tính toán cần tính đến ảnh hưởng của công nghệ và mô hình giáo dục mới, có nhiều thành phần tham gia trong không gian mở với danh mục công việc cụ thể về nguồn lực người, tài chính, cơ sở vật chất và kết quả đạt được.
7. Giải pháp thực hiện Đề án
Diễn đạt từng biện pháp (cách làm) cụ thể rõ ràng, ví dụ: Tên biện pháp ngắn gọn, gồm: mục tiêu biện pháp, quy trình, các bước thực hiện, điều kiện thực hiện, kết quả đạt được…để khi triển khai có các chủ thể thực hiện được. Nên sơ đồ hóa các biện pháp để thấy các quan hệ ràng buộc, hữu cơ.
Chính sách, mô hình, nguồn lực, phải hướng đến mục tiêu chung, có tính khả thi; những giải pháp khó đo, thì mục tiêu cần xác định kết quả từ sự phân tích.
8. Các chương trình, dự án thành phần thực hiện các giải pháp
Do khung thời gian chu kì 5 năm, nên tập trung vào các công việc cụ thể, rõ đối tượng tác động, đối tượng thụ hưởng và kết quả đạt được, điều kiện thực hiện; đề án cấp tỉnh cần quan tâm 3 vấn đề cốt lõi là: Đội ngũ, CSVC và chuyển đối số là phù hợp.
Đề án Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí
Cần nhất quán quan điểm chỉ đạo về 2 đối tượng:
i) Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục; năng lực phát triển chương trình của giáo viên là năng lực then chốt giải quyết mọi vấn đề của chất lượng giáo dục;
ii) Cán bộ quản lí giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục (Luật giáo dục, 2019).
Mục tiêu tổng quát của đề án này cần xuất phát từ quan điểm của UNESCO: “đào tạo giáo viên trở thành chuyên gia giáo dục chứ không phải là chuyên gia truyền đạt kiến thức”. Do vậy, nếu đặt mục tiêu năng lực cần ở tầm chuyên gia sư phạm và phẩm chất trách nhiệm cao (cống hiến) sẽ giải quyết được vấn đề chất lượng giáo dục. Ngoài mục tiêu tuyển dụng theo cách cũ, cần xác định lại nguồn tuyển từ nhiều lĩnh vực khác có thể trở thành người dạy (chuyên gia giáo dục). Mục tiêu nâng chuẩn cần xác định rõ “chuẩn năng lực” cụ thể là năng lực phát triển chương trình giáo dục. Đây là năng lực rất quan trọng nhưng lại đang rất hạn chế của phần lớn giáo viên. Năng lực này, cùng với năng lực ngoại ngữ và công nghệ sẽ giúp người GV tạo sự bứt phá mạnh mẽ. Do vậy hãy lựa chọn một số năng lực (8 năng lực và 5 lĩnh vực trách nhiệm của giáo viên theo khuyến nghị của UNESCO) để tập trung đào tạo giáo viên cơ bản và bồi dưỡng năng lực phải là trọng tâm để triển khai đề án này.
Không diễn đạt các mục tiêu bằng các cụm từ có tính chất chủ trương, nêu khẩu hiệu như “tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức; đảm bảo số lượng; nâng cao hiệu quả; xây dựng thực hiện chính sách…” mà cần tập trung vào “công việc” với các động từ cụ thể như “Khảo sát, đánh giá năng lực giáo viên và cán bộ quản lí; xây dựng các tiêu chuẩn mới trong tuyển dụng, đánh giá, phát triển đội ngũ; đào tạo lại và bồi dưỡng ở nước ngoài…; kèm theo là các điều kiện bằng tài chính và các điều kiện khác để thực hiện.
Đề án về cơ sở vật chất
Trong bối cảnh mới, cần quan niệm đúng về CSVC: mọi sự vật (thật và ảo) gắn với đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy học; khai thác và sử dụng thiết bị cho phù hợp; biện pháp chính là: rà soát lại thiết bị hiện có, mua sắm bổ sung các thiết bị dạy học còn thiếu phù hợp với các môn học và hoạt động; trang bị các thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin; khuyến khích các nhà trường tự làm thiết bị dạy học, vừa đáp ứng nhu cầu dạy và học, vừa nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh…gắn với kế hoạch giáo dục khoa học, hợp lý; gắn với quy hoạch mạng lưới trường, lớp học – hoàn thiện môi trường giáo dục; tập trung rà soát, điều chỉnh, bố trí, nâng cao hiệu quả sử dụng không gian và điều kiện của xã hội...cho hoạt động giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo cần lưu ý: hiệu quả - tiết kiệm và nên có “suy nghĩ mới từ vật liệu cũ” trong giáo dục nhà trường; gắn môi trường học với môi trường xã hội và gia đình để huy động không gian khác, điều kiện khác để thực hiện kế hoạch, hoạt động giáo dục theo mục tiêu chương trình giáo dục 2018.
Mục tiêu chung và cụ thể: Mục tiêu chung cần bổ sung mục tiêu nâng tầm nhận thức và trách nhiệm của các lực lượng trong và ngoài ngành về điều kiện CSVC và thiết bị giáo dục theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, gắn nhà trường với môi trường khoa học công nghệ. Mục tiêu cụ thể cần viết rõ việc đầu tư đủ theo định mức từng năm theo vùng (phát triển hoặc khó khăn –vùng lõm) để giải quyết vấn đề thiết thực hơn.
Chương trình chuyển đổi số trong giáo dục
Sự cần thiết cần nhấn mạnh chuyển đổi số không chỉ là xu hướng trong quản trị hành chính mà quan trọng hơn trong giáo dục là: i) công cụ mạnh trong dạy học và ii) giáo dục phải tạo ra những con người có năng lực, có trách nhiệm dẫn dắt xã hội trong thời đại 4.0 về công nghệ hiện đại.
Mục tiêu cần xác định tỉ lệ % kết nối liên thông toàn ngành và ngoài ngành về nội dung học liệu mở và sau từng năm phải kết nối toàn cầu với năng lực ngoại ngữ của giáo viên và học sinh tương ứng.
Nhiệm vụ và giải pháp cần xác định những công việc phải làm cụ thể và có chiến lược. Đảm bảo kết nối toàn cầu của người học dựa trên 3 điều kiện: tư duy sáng tạo, công nghệ hiện đại và tiếng Anh. Do vậy, coi trọng đầu tư hạ tầng số cho trường học (quan tâm đặc biệt là vùng sâu, vùng hải đảo, biên giới…). Đồng thời tận dung cơ hội Số để chuẩn bị dạy tiếng Anh như ngôn ngữ 2 theo lộ trình.
Đề xuất các mô hình giáo dục mới, ví dụ giáo dục STEM
Phân biệt rõ: i) Giáo dục STEM là một phương thức giáo dục nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học gắn liền với ứng dụng của chúng trong thực tiễn. Science (Khoa học), Technology (Công nghệ), Engineering (Kỹ thuật), Maths (Toán học); ii) Mục đích chính của nhóm ngành nhân lực STEM không chỉ nằm ở việc cung cấp kiến thức nền tảng, mà còn thúc đẩy kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, sáng tạo để bắt nhịp kịp thời với thực trạng công nghệ hóa toàn cầu trong thời đại như hiện nay. Nhân lực STEM chung cả nước còn thấp, do vậy, đề án cần nâng chỉ tiêu học sinh học môn học tương ứng để tăng tỉ lệ SV ở lĩnh vực STEM (hiện chỉ khoảng 27-29%). Giải pháp chiến lược là gắn chặt giáo dục phổ thông với trường đại học.
9. Tổ chức thực hiện Đề án
Lưu ý tránh phân chia nhiệm vụ rời rạc, cần xác định rõ việc và rõ vai từng chủ thể, tránh trùng chéo và thiếu quản lí.
10. Những khuyến nghị trong quá trình xây dựng đề án
Mục tiêu đề án phù hợp với chỉ đạo trong NQ của Đại hội đảng bộ tỉnh, cần quan tâm từ góc nhìn của khoa học giáo dục: “Phát triển giáo dục, đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao…”, theo đó cần hiểu đồng bộ: giáo dục phổ thông và đào tạo nghề, đào tạo đại học. Thực chất “phát triển nguồn nhân lực” phải tiếp cận 2 chiều cạnh: i) Đồng bộ giữa giáo dục phổ thông –giáo dục nghề nghiệp - giáo dục đại học thành một chuỗi logic có cơ cấu hợp lí và có tính liên thông cao; ii) Đồng bộ giữa phát triển nhân lực và sử dụng nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chỉ có thể thành công bởi khâu quan trọng là sử dụng, như vậy đề án phát triển giáo dục phải tiếp cận cùng với đề án của ngành Nội vụ hoặc của Chiến lược sử dụng nhân lực theo quan điểm của UNDP “Phát triển nguồn nhân lực gồm phát triển nhân tính, khả năng của con người và sử dụng khả năng ấy”. Để giải quyết khó khăn việc sử dụng nhân lực (là kết quả tương lai của giáo dục, kể cả phổ thông và đại học) lại không thuộc thẩm quyền của ngành giáo dục.
Quan niệm đúng về “giáo dục” là phát triển tiềm năng sẵn có của con người, khác với chữ “đào tạo”- thường được hiểu bó hẹp trong giáo dục nhà trường. Trong cụm từ phát triển nhân lực, nhấn mạnh “phát triển” và “sử dụng”, việc sử dụng nhân lực chất lượng cao chính là yếu tố tác động mạnh đến chiến lược phát triển con người. Đánh giá sự đóng góp của nguồn lực chất lượng cao vào tăng trưởng hay phát triển bền vững phải là chất lượng con người quyết định chất lượng tăng trưởng. Đối với giáo dục đại học, giá trị lớn mà người học có được khi đến trường đại học là được tiếp cận với nhiều người giỏi, có điều kiện nghiên cứu sáng tạo và sản sinh tri thức mới ở môi trường hiện đại. Giá trị cốt lõi của trường đại học là tự do học thuật, là sáng tạo, là nơi nuôi dưỡng những nhân cách văn hóa, có tư tưởng và có trách nhiệm cống hiến. Môi trường đại học phải thật sự tự chủ, nhân văn và có khát vọng dẫn dắt xã hội, được đặt trong không gian sinh thái văn hóa, lịch sử và kiến trúc hiện đại, giàu bản sắc của địa phương. Đây là điều kiện duy nhất để cạnh tranh, thúc đẩy sự vươn dậy không phải bởi tài nguyên khoáng sản mà bằng sự ngang bằng trí tuệ trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Trong nội dung văn kiện của các tỉnh, qua khảo sát văn kiện nhiều nhiệm kì đều hướng đến các chỉ tiêu kinh tế xã hội rất cụ thể, GRDP (tốc độ tăng trưởng kinh tế) bằng những con số ấn tượng. Tuy nhiên, một chỉ số phát triển quan trọng, là đích cuối cùng cần đạt đến, đó là mục tiêu phát triển con người – ít được đề cập mặc dù mục tiêu này bao trùm các chỉ tiêu và các giải pháp. Chất lượng của tăng trưởng phải lấy mục tiêu phát triển con người làm trọng tâm, cơ bản, do vậy phải đặt chỉ tiêu HDI trong chiến lược. Đây là cách tiếp cận nhân văn, là đích đến của mọi giải pháp chiến lược, chỉ rõ trình độ phát triển con người.
Mục tiêu của các tỉnh để bứt phá mạnh mẽ cần đồng bộ “3 đột phá”, trong đó hạ tầng cứng, thiết chế quản lí hấp dẫn nhà đầu tư, nhưng điều cốt yếu là hạ tầng mềm-chất lượng con người…yếu tố quyết định sự phát triển bền vững thì nhiều địa phương chưa đặt trọng tâm để bứt phá, không có bản sắc, thiếu căn cứ khoa học và nguồn lực đảm bảo.
Giáo dục phổ thông phải là nền tảng với mục tiêu hình thành năng lực cơ bản của người học với công cụ ngoại ngữ và CNTT mạnh cùng với kĩ năng mềm. Giáo dục đại học với sức sáng tạo sẽ là đột phá, mũi nhọn để tỉnh bứt phá, vượt trội và phát triển bền vững. Đây là 2 vấn đề cần giải quyết hệ thống, quyết liệt với cách làm thông minh nếu biết tận dụng cơ hội chuyển đổi số cùng quyết tâm chính trị. Thách thức lớn bởi tiếp cận giáo dục có 2 điều rất khó: i) việc (nhiệm vụ giáo dục) không thể đơn ngành giải quyết cụ thể và ii) có thể đánh giá hiệu quả giáo dục không xác định được thời gian (vì chất lượng con người không thể đo theo nhiệm kì) thậm chí không nhìn thấy hiệu quả của giáo dục phổ thông và giáo dục đại học trực tiếp bởi nó đã ngấm vào nguồn nhân lực đang góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội rồi.
Giáo dục không chỉ là nền tảng phát triển kinh tế - xã hội mà còn là động lực cốt lõi quyết định chất lượng nguồn nhân lực, năng lực đổi mới và khả năng cạnh tranh của quốc gia. Trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập toàn cầu và những yêu cầu ngày càng cao từ thị trường lao động, giáo dục cần được định hướng theo mô hình mở, linh hoạt, gắn liền với thực tiễn và phát triển con người toàn diện. Điều này đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ trong nội dung, phương pháp giảng dạy, quản trị giáo dục, cũng như sự kết nối chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và xã hội. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu trước mắt mà phải hướng đến khả năng dẫn dắt sự đổi mới và phát triển bền vững. Bên cạnh đó, quản trị giáo dục cũng cần được nâng cao, đảm bảo tính hiệu quả, minh bạch và khả năng thích ứng với những biến động trong tương lai. Chỉ khi giáo dục thực sự trở thành một hệ sinh thái học tập suốt đời, nơi người học không chỉ tiếp thu tri thức mà còn được trang bị tư duy phản biện, năng lực sáng tạo và khả năng ứng dụng thực tế, thì mới có thể tạo ra những bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Với một tầm nhìn dài hạn, chính sách thực tiễn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ, giáo dục sẽ trở thành đòn bẩy quan trọng giúp các địa phương và cả quốc gia bứt phá, hội nhập và phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.